Dịch vụ lập dự án của chúng tôi cung cấp giải pháp toàn diện cho mọi nhu cầu từ dự án dược liệu đến nông nghiệp. Với kinh nghiệm sâu rộng, chúng tôi đảm bảo lập ra các dự án hiệu quả, bền vững, hỗ trợ từ khâu nghiên cứu, phân tích đến thực thi. Liên hệ ngay để biến ý tưởng thành hiện thực! |
Người khống chế nhiễm trùng ngoại khoa
Những năm đầu của thế kỷ 19, phẫu thuật ngoại khoa đã có mặt phổ biến ở tất cả các bệnh viện lớn nhỏ trên thế giới. Tuy nhiên, khi đó không mấy ai có ý thức đầy đủ về công việc phẫu thuật. Tỷ lệ nhiễm trùng sau mổ rất cao, vết thương nào cũng có mủ. Chẳng ai để tâm đến chuyện vốn từ xưa vẫn thường xảy ra ấy trừ một phẫu thuật viên lành nghề tên là Joseph Lister, khi đó đang phụ trách Khoa Ngoại lâm sàng của Bệnh viện Hoàng gia Glasgow (Anh)...
Những viên gạch nền móng của kỹ thuật sát trùng
Đầu thế kỷ 19, vai trò của phẫu thuật trong điều trị bệnh tật và thương tổn đã được khẳng định. Rất nhiều bệnh nhân đã qua cơn thập tử nhất sinh nhờ phẫu thuật. Tuy nhiên, tỷ lệ tử vong trong điều trị lại không thấy giảm đi là mấy. Không ít bệnh nhân tưởng đã được cứu sống nhờ phẫu thuật thì sau đó lại chết dần chết mòn vì những biến chứng do phẫu thuật. Chẳng ai hiểu nguyên nhân vì sao, càng không biết phương cách nào để phòng chống hiện trạng bi đát này.
Tại Bệnh viện Hoàng gia Glasgow, những ca nhiễm trùng nặng và tử vong sau các cuộc phẫu thuật được cho là thành công luôn làm vị giáo sư trẻ Joseph Lister, năm đó mới 33 tuổi đang đảm nhiệm trọng trách Trưởng Khoa ngoại lâm sàng đau đầu và trăn trở. Lister để tâm chú ý và nhận thấy các vết thương gãy xương kín, mặc dù bị bầm giập nhiều nhưng sau khi điều trị vẫn dễ lành khỏi. Trái lại những vết thương hở có rách da thường dễ bị nhiễm trùng nặng, khó chữa khỏi và nguy hại cho tính mạng người bệnh. Vì sao thế nhỉ? Do vết thương có tiếp xúc với không khí ư? Có yếu tố gây nhiễm trùng luôn tồn tại trong không khí chăng? Lister suy nghĩ nhưng chưa tìm được câu trả lời.
Năm 1865, trong một cuộc thảo luận về vấn đề nhiễm trùng với giáo sư hóa học Thomas Anderson, Lister được giới thiệu cuốn sách có nhan đề Nghiên cứu về hiện tượng thối rữa của nhà hóa học người Pháp Louis Pasteur, Lister thật ngạc nhiên và chú ý đến luận điểm của Pasteur cho rằng trong không khí có những mầm vi sinh vật, đây chính là nguyên nhân gây hiện tượng lên men và thối rữa. Phải chăng ở nơi phòng mổ, không khí cũng chứa đầy những mầm đó? Chúng bám vào bàn mổ, dao mổ, quần áo thầy thuốc mổ và khi lưỡi dao rạch trên da bệnh nhân cũng chính là lúc các mầm vi sinh vật xâm nhập vào các tổ chức thương tổn, phát triển và tạo thành mủ, có thật như vậy không? Lister suy nghĩ và ông quyết định phải loại bỏ các mầm vi sinh vật đó, nhưng bằng cách nào nhỉ? Theo Pasteur, có thể dùng phương pháp đun sôi để loại bỏ vi khuẩn, nhưng tại bệnh viện thì thật khó áp dụng phương pháp này.
Một buổi chiều, trong khi dạo chơi, Lister dừng lại trước một bể lớn chứa nước cống của thành phố. Nước đục đen ngòm, trên bề mặt phủ một chất nhầy đặc quánh. Lister cất công tìm hỏi nhiều người, hỏi cả vị giáo sư hóa học và được biết đó là chất acid carbolic, được dùng để thanh khiết, tẩy trùng. Đầu năm 1865, Lister quyết định thử nghiệm phương pháp tẩy trùng bằng acid carbolic cho các trường hợp gãy xương hở. Ông làm những gạc sát trùng tẩm acid carbolic (bây giờ gọi là phenol). Đối với những trường hợp gãy xương phức tạp, khó tránh khỏi nhiễm trùng và tử vong, ông còn rửa vết thương bằng acid carbolic và dùng gạc sát trùng tẩm acid carbolic băng kín lại, đồng thời thường xuyên thay gạc. Ông ngạc nhiên nhận thấy vết thương khô sạch, không có chút mủ nào và liền sẹo rất nhanh. Trong suốt 18 tháng liền, Lister đã dùng phương pháp này để điều trị thử nghiệm cho 12 bệnh nhân gãy xương hở, kết quả: 8 người khỏi hoàn toàn, 1 người bị hoại thư rồi cũng khỏi, 1 người phải cắt chi, chỉ có 2 người chết.
Tháng 3/1867, trên tờ Lancet, nội san của giới khoa học Anh, Lister thông báo: "Một phương pháp mới để điều trị gãy xương có biến chứng" với 10/12 trường hợp đều khỏi (trừ 2 bị chết ngay) trong đó có 7 bị rách da nặng. Vài tháng sau ông cho xuất bản chuyên đề Về nguyên tắc sát trùng trong phẫu thuật để xác nhận những điểm cơ bản của phương pháp mới là hủy diệt các mầm bệnh không cho xâm nhập vào các vết thương hở bằng cách sát trùng. Ông đề ra cách băng bó vết thương với nhiều lớp gạc có tẩm acid phenic, các dụng cụ phẫu thuật đều được ngâm trong dung dịch sát trùng, thậm chí ông còn sáng chế một máy bơm phun những hạt nước dịch acid carbolic 2% thành một màn sương mù trong phòng mổ để tiêu diệt các mầm bệnh có trong không khí.
Bơm thuốc sát khuẩn trước khi làm phẫu thuật. |
Nhọc nhằn để được thừa nhận
Sáng kiến của Lister ngay từ buổi đầu không được các phẫu thuật viên người Anh chấp nhận dễ dàng. Trong nhiều năm (có đến 25 năm), từ khi Lister công bố công trình của mình, ở nhiều khoa lâm sàng, kỹ thuật sát trùng của ông không được áp dụng... Lúc này, chính bản thân Lister cũng chưa hiểu rõ quá trình nhiễm trùng, chưa hiểu acid carbolic chỉ có tác dụng bảo vệ những vết thương sớm nhưng kém hiệu quả đối với vết thương muộn. Thời đó người ta cũng chưa biết rằng ngoài những vi trùng ái khí (cần có không khí để phát triển) thường hiện diện tại vết thương hở, lại có những vi trùng yếm khí (không cần không khí) vẫn hoạt động nảy sinh trong vết thương kín. Vì vậy, sự phổ biến phương pháp sát trùng có nhiều khó khăn. Tại nước Anh, chỉ có 2 bệnh viện Liverpool và Manchester có những kết quả tốt nhờ cách sát trùng: trước kia thời gian lành vết thương là 6 tháng nay giảm còn 6 tuần lễ, tỷ lệ tử vong cũng hạ thấp: chỉ 10% các trường hợp cắt đoạn chi bị chết do nhiễm trùng.
Tuy nhiên, ở một số nước, đặc biệt là ở Đức, phương pháp của Lister được áp dụng rộng rãi. Từ năm 1875, Nussbaum đã áp dụng phương pháp này và trong một thời gian ngắn ông khống chế được chứng hoại thư và nhiễm khuẩn huyết. Nussbaum viết một cuốn sách mỏng trình bày kinh nghiệm của mình, góp phần phổ biến phương pháp của Lister sang các nước châu Âu. Dần dần phương pháp này được phổ biến và áp dụng tại Mỹ.
Cuối cùng, các nhà khoa học trên quê hương Lister phải thừa nhận ông. Năm 1880, Lister nhận văn bằng danh dự của Trường đại học Oxford và Cambridge. 3 năm sau ông được phong huân tước. Mãi đến năm 1890, ông mới được tạp chí Lancet, một tạp chí thông thường chỉ chấp nhận các quan điểm y học trường phái Anh ca ngợi. Lúc đó đại đa số đồng nghiệp của Lister mới thay đổi quan điểm.
- 81 viên sỏi lấp đầy túi mật
- 34 bài thuốc nam cực hữu ích từ gừng áp dụng trong đời sống hằng ngày
- Ăn mì tôm mỗi ngày là tác nhân gây bệnh tiểu đường, tăng quá trình lão hóa
- Củ Maca – Bí mật của hạnh phúc
- Hỏng hết tim, gan, não, thận vì thuốc giảm cân siêu tốc
- Bệnh tâm thần: Dấu hiệu bệnh tâm thần dễ bị bỏ qua
- Cây bồ công anh và những điều có thể bạn chưa biết
- Hà thủ ô bổ can thận, dưỡng huyết
- Nước ép cần tây có tác dụng gì với sức khỏe?
- Thực phẩm có tác dụng thải độc cơ thể ai cũng nên biết
Sức khỏe đời sống
- Thuốc và sức khỏe
- Dinh dưỡng
- Thế giới tâm linh
- Đông tây y kết hợp
- Vắc xin tiêm phòng bệnh
- Thuốc tây y
- Bệnh viện - Trung tâm y tế
- Vệ sinh an toàn thực phẩm - Dược Phẩm
- Món Ăn Ngon Lại Còn Chữa Bệnh
- Món chay ngon
- Những bài văn khấn thông dụng
- Thực phẩm Hữu Cơ Organic
- Phật Pháp và Cuộc Sống
- Nhà Thuốc Đông Y Việt Nam
- Hỏi đáp thắc mắc
- Những vị thuốc nam Y học Cổ truyền Việt Nam
- Kiến thức Làm đẹp
- Đông y trị bệnh
- Vận mệnh năm 2020
Bài thuốc nam chữa bệnh
- Tổng hợp những cây thuốc nam, cây thảo dược trị bệnh tiểu đường
- Bài thuốc ngâm rượu: Cách chọn bài thuốc ngâm rượu phù hợp với cơ địa từng người
- Những bài thuốc đông y chữa bệnh khó có thai
- Những bài thuốc Đông y chữa bệnh mất ngủ, đau đầu
- 17 Bài thuốc đông y dễ làm chữa bệnh hôi nách hiệu quả tận gốc
- Những món ăn bài thuốc Nam y chữa bệnh Viêm gan hiệu quả
- Những bài thuốc Nam chữa bệnh hiệu quả từ lá, quả, vỏ và rễ cây Nhàu
- Những Bài thuốc đông y chữa viêm Viêm loét dạ dày, tá tràng hiệu quả
- Những bài thuốc đông y trị viêm xoang, viêm xoang mạn tính, hiệu quả nhất
- Những Bài thuốc đông y chữa viêm amidan hiệu quả nhất dùng cho người lớn và trẻ em
Bệnh ung thư
- Bệnh ung thư vú
- Bệnh ung thư máu
- Ung thư vòm họng
- Ung thư dạ dày
- Ung thư gan
- Bệnh Ung Thư ở Trẻ Em
- Ung thư và sản phẩm tự nhiên
- Những phát hiện mới về bệnh Ung Thư
Cây thuốc Nam
- Cây Kê Huyết Đằng
- Cây Bồ Công Anh
- Sâm Ngọc Linh
- Cây Tam Thất
- Nấm Linh Chi
- Cây Kim Ngân Hoa
- Cây cỏ xước
- Cây Thiên Môn
- Cây gai
- Cây địa hoàng
- Đông trùng hạ thảo
- Cam thảo nam hay Cam thảo đất
- Nghiên cứu Dược Liệu
- Cây Hà Thủ Ô
Bệnh thường gặp
- Ung thư
- Vô sinh
- Bệnh trẻ em
- Bệnh truyền nhiễm
- Tai mũi họng
- Bệnh bướu cổ
- Bệnh sỏi thận
- Bệnh viêm xoang
- Bệnh Thần kinh
- Bệnh tim mạch
- Kiến thức chăm sóc bé
- Bệnh khớp - Viêm khớp
- Bệnh về đường hô hấp ở trẻ em
- Bệnh về tiêu hóa ở trẻ em
- Bệnh tay chân miệng ở trẻ em
- Bệnh trĩ
- Bệnh tiểu đường
- Bệnh gut - gout
- Bệnh cao huyết áp
- Bệnh Gan- Viêm gan
- Bệnh AIDS - SIDA - HIV
- Bệnh hen
- Bệnh ngoài da thường gặp
- Chữa bệnh mất ngủ tại nhà
- Kiến thức Phụ Nữ Sau Sinh cần biết
- Thai sản
- Các thuốc không dùng khi mang thai, cho con bú
- Thu hồi toàn quốc Kem bôi mắt của Công ty TNHH MTV thương mại và xuất nhập khẩu Kỳ Phong chứa paraben
- Cục Quản Lý Dược Đình Chỉ Lưu Hành và Tiêu Hủy Mỹ Phẩm Không Đạt Chất Lượng Của Công Ty TNHH Xuất Nhập Khẩu Khang Thịnh
Tin mới đăng
- Thu hồi toàn quốc Kem bôi mắt của Công ty TNHH MTV thương mại và xuất nhập khẩu Kỳ Phong chứa paraben
- Cục Quản Lý Dược Đình Chỉ Lưu Hành và Tiêu Hủy Mỹ Phẩm Không Đạt Chất Lượng Của Công Ty TNHH Xuất Nhập Khẩu Khang Thịnh
- Cảnh Giác với 'Thần Y' Khoác Áo Tu Hành
- Đình chỉ lưu hành, thu hồi và tiêu hủy toàn quốc lô sản phẩm Gammaphil - Chai 125ml
- Công Dụng và Tác Dụng Phụ của Cây Xạ Đen Trong Đông Y
Cây thuốc quý
- Cây Xạ Can, rẻ quạt, Tên khoa học, Thành phần hóa học, Tác dụng chữa bệnh của cây (Belamcanda sinensis)
- Cây Diệp hạ châu, Tên khoa học, Thành phần hóa học, tác dụng chữa bệnh của cây (Phyllanthus urinaria L)
- Cây Cà gai leo, Tên khoa học, Thành phần hóa học, tác dụng chữa bệnh của cây
- Cây Hoàng cầm, Tên khoa học, Thành phần hóa học, tác dụng chữa bệnh của cây
- Cây Hồng hoa, Rum, Tên khoa học, Thành phần hóa học, tác dụng chữa bệnh của cây
- Cây Hoàng cầm râu, Bán chi liên, Tên khoa học, Thành phần hóa học, tác dụng chữa bệnh của cây
- Cây Mạch môn đông, Tên khoa học, Thành phần hóa học, tác dụng chữa bệnh của cây
- Nấm Linh chi, Nấm lim - Ganoderma lucidum, tác dụng chữa bệnh của Nấm
- Cây Me rừng, Chùm ruột núi, Phyllanthus emblica L, và tác dụng chữa bệnh của cây
- Cây Hà thủ ô trắng, Dây sữa bò, Streptocaulon juventas và tác dụng chữa bệnh của cây
- Cây Hà thủ ô, Hà thủ ô đỏ, Polygonum multiflorum Thumb và tác dụng chữa bệnh của cây
- Cây Hàm ếch, Trầu nước, Saururus chinensis và tác dụng chữa bệnh của cây
Bạn cần biết
- Nghe nhà sư giảng về nguồn gốc tâm linh của ung thư
- Mười công đức lớn của việc phát tâm in kinh Phật
- Chuỗi tràng hạt Phật giáo, nguồn gốc, ý nghĩa và công dụng
- Xem bộ tranh nhân quả báo ứng ai cũng nên xem để biết
- Miệng nói lời cay độc bao nhiêu, đời người bạc mệnh bấy nhiêu
- Quả báo kinh hãi mang đến cho tội tà dâm, Ngoại tình
- Tổng thống Obama gởi thông điệp Phật đản
- Vòng duyên nghiệp không ai có thể thoát
- Khổ đau, sinh tử cũng từ tâm
- Ý nghĩa tụng kinh Dược Sư và niệm Phật Dược Sư
- Ý Nghĩa Ngày Phật Đản - Vesak
- Ý nghĩa của việc cúng dường chư Phật
Dịch vụ lập dự án của chúng tôi cung cấp giải pháp toàn diện cho mọi nhu cầu từ dự án dược liệu đến nông nghiệp. Với kinh nghiệm sâu rộng, chúng tôi đảm bảo lập ra các dự án hiệu quả, bền vững, hỗ trợ từ khâu nghiên cứu, phân tích đến thực thi. Liên hệ ngay để biến ý tưởng thành hiện thực! |
Người khống chế nhiễm trùng ngoại khoa
Những năm đầu của thế kỷ 19, phẫu thuật ngoại khoa đã có mặt phổ biến ở tất cả các bệnh viện lớn nhỏ trên thế giới. Tuy nhiên, khi đó không mấy ai có ý thức đầy đủ về công việc phẫu thuật. Tỷ lệ nhiễm trùng sau mổ rất cao, vết thương nào cũng có mủ. Chẳng ai để tâm đến chuyện vốn từ xưa vẫn thường xảy ra ấy trừ một phẫu thuật viên lành nghề tên là Joseph Lister, khi đó đang phụ trách Khoa Ngoại lâm sàng của Bệnh viện Hoàng gia Glasgow (Anh)...
Những viên gạch nền móng của kỹ thuật sát trùng
Đầu thế kỷ 19, vai trò của phẫu thuật trong điều trị bệnh tật và thương tổn đã được khẳng định. Rất nhiều bệnh nhân đã qua cơn thập tử nhất sinh nhờ phẫu thuật. Tuy nhiên, tỷ lệ tử vong trong điều trị lại không thấy giảm đi là mấy. Không ít bệnh nhân tưởng đã được cứu sống nhờ phẫu thuật thì sau đó lại chết dần chết mòn vì những biến chứng do phẫu thuật. Chẳng ai hiểu nguyên nhân vì sao, càng không biết phương cách nào để phòng chống hiện trạng bi đát này.
Tại Bệnh viện Hoàng gia Glasgow, những ca nhiễm trùng nặng và tử vong sau các cuộc phẫu thuật được cho là thành công luôn làm vị giáo sư trẻ Joseph Lister, năm đó mới 33 tuổi đang đảm nhiệm trọng trách Trưởng Khoa ngoại lâm sàng đau đầu và trăn trở. Lister để tâm chú ý và nhận thấy các vết thương gãy xương kín, mặc dù bị bầm giập nhiều nhưng sau khi điều trị vẫn dễ lành khỏi. Trái lại những vết thương hở có rách da thường dễ bị nhiễm trùng nặng, khó chữa khỏi và nguy hại cho tính mạng người bệnh. Vì sao thế nhỉ? Do vết thương có tiếp xúc với không khí ư? Có yếu tố gây nhiễm trùng luôn tồn tại trong không khí chăng? Lister suy nghĩ nhưng chưa tìm được câu trả lời.
Năm 1865, trong một cuộc thảo luận về vấn đề nhiễm trùng với giáo sư hóa học Thomas Anderson, Lister được giới thiệu cuốn sách có nhan đề Nghiên cứu về hiện tượng thối rữa của nhà hóa học người Pháp Louis Pasteur, Lister thật ngạc nhiên và chú ý đến luận điểm của Pasteur cho rằng trong không khí có những mầm vi sinh vật, đây chính là nguyên nhân gây hiện tượng lên men và thối rữa. Phải chăng ở nơi phòng mổ, không khí cũng chứa đầy những mầm đó? Chúng bám vào bàn mổ, dao mổ, quần áo thầy thuốc mổ và khi lưỡi dao rạch trên da bệnh nhân cũng chính là lúc các mầm vi sinh vật xâm nhập vào các tổ chức thương tổn, phát triển và tạo thành mủ, có thật như vậy không? Lister suy nghĩ và ông quyết định phải loại bỏ các mầm vi sinh vật đó, nhưng bằng cách nào nhỉ? Theo Pasteur, có thể dùng phương pháp đun sôi để loại bỏ vi khuẩn, nhưng tại bệnh viện thì thật khó áp dụng phương pháp này.
Một buổi chiều, trong khi dạo chơi, Lister dừng lại trước một bể lớn chứa nước cống của thành phố. Nước đục đen ngòm, trên bề mặt phủ một chất nhầy đặc quánh. Lister cất công tìm hỏi nhiều người, hỏi cả vị giáo sư hóa học và được biết đó là chất acid carbolic, được dùng để thanh khiết, tẩy trùng. Đầu năm 1865, Lister quyết định thử nghiệm phương pháp tẩy trùng bằng acid carbolic cho các trường hợp gãy xương hở. Ông làm những gạc sát trùng tẩm acid carbolic (bây giờ gọi là phenol). Đối với những trường hợp gãy xương phức tạp, khó tránh khỏi nhiễm trùng và tử vong, ông còn rửa vết thương bằng acid carbolic và dùng gạc sát trùng tẩm acid carbolic băng kín lại, đồng thời thường xuyên thay gạc. Ông ngạc nhiên nhận thấy vết thương khô sạch, không có chút mủ nào và liền sẹo rất nhanh. Trong suốt 18 tháng liền, Lister đã dùng phương pháp này để điều trị thử nghiệm cho 12 bệnh nhân gãy xương hở, kết quả: 8 người khỏi hoàn toàn, 1 người bị hoại thư rồi cũng khỏi, 1 người phải cắt chi, chỉ có 2 người chết.
Tháng 3/1867, trên tờ Lancet, nội san của giới khoa học Anh, Lister thông báo: "Một phương pháp mới để điều trị gãy xương có biến chứng" với 10/12 trường hợp đều khỏi (trừ 2 bị chết ngay) trong đó có 7 bị rách da nặng. Vài tháng sau ông cho xuất bản chuyên đề Về nguyên tắc sát trùng trong phẫu thuật để xác nhận những điểm cơ bản của phương pháp mới là hủy diệt các mầm bệnh không cho xâm nhập vào các vết thương hở bằng cách sát trùng. Ông đề ra cách băng bó vết thương với nhiều lớp gạc có tẩm acid phenic, các dụng cụ phẫu thuật đều được ngâm trong dung dịch sát trùng, thậm chí ông còn sáng chế một máy bơm phun những hạt nước dịch acid carbolic 2% thành một màn sương mù trong phòng mổ để tiêu diệt các mầm bệnh có trong không khí.
Bơm thuốc sát khuẩn trước khi làm phẫu thuật. |
Nhọc nhằn để được thừa nhận
Sáng kiến của Lister ngay từ buổi đầu không được các phẫu thuật viên người Anh chấp nhận dễ dàng. Trong nhiều năm (có đến 25 năm), từ khi Lister công bố công trình của mình, ở nhiều khoa lâm sàng, kỹ thuật sát trùng của ông không được áp dụng... Lúc này, chính bản thân Lister cũng chưa hiểu rõ quá trình nhiễm trùng, chưa hiểu acid carbolic chỉ có tác dụng bảo vệ những vết thương sớm nhưng kém hiệu quả đối với vết thương muộn. Thời đó người ta cũng chưa biết rằng ngoài những vi trùng ái khí (cần có không khí để phát triển) thường hiện diện tại vết thương hở, lại có những vi trùng yếm khí (không cần không khí) vẫn hoạt động nảy sinh trong vết thương kín. Vì vậy, sự phổ biến phương pháp sát trùng có nhiều khó khăn. Tại nước Anh, chỉ có 2 bệnh viện Liverpool và Manchester có những kết quả tốt nhờ cách sát trùng: trước kia thời gian lành vết thương là 6 tháng nay giảm còn 6 tuần lễ, tỷ lệ tử vong cũng hạ thấp: chỉ 10% các trường hợp cắt đoạn chi bị chết do nhiễm trùng.
Tuy nhiên, ở một số nước, đặc biệt là ở Đức, phương pháp của Lister được áp dụng rộng rãi. Từ năm 1875, Nussbaum đã áp dụng phương pháp này và trong một thời gian ngắn ông khống chế được chứng hoại thư và nhiễm khuẩn huyết. Nussbaum viết một cuốn sách mỏng trình bày kinh nghiệm của mình, góp phần phổ biến phương pháp của Lister sang các nước châu Âu. Dần dần phương pháp này được phổ biến và áp dụng tại Mỹ.
Cuối cùng, các nhà khoa học trên quê hương Lister phải thừa nhận ông. Năm 1880, Lister nhận văn bằng danh dự của Trường đại học Oxford và Cambridge. 3 năm sau ông được phong huân tước. Mãi đến năm 1890, ông mới được tạp chí Lancet, một tạp chí thông thường chỉ chấp nhận các quan điểm y học trường phái Anh ca ngợi. Lúc đó đại đa số đồng nghiệp của Lister mới thay đổi quan điểm.
- 81 viên sỏi lấp đầy túi mật
- 34 bài thuốc nam cực hữu ích từ gừng áp dụng trong đời sống hằng ngày
- Ăn mì tôm mỗi ngày là tác nhân gây bệnh tiểu đường, tăng quá trình lão hóa
- Củ Maca – Bí mật của hạnh phúc
- Hỏng hết tim, gan, não, thận vì thuốc giảm cân siêu tốc
- Bệnh tâm thần: Dấu hiệu bệnh tâm thần dễ bị bỏ qua
- Cây bồ công anh và những điều có thể bạn chưa biết
- Hà thủ ô bổ can thận, dưỡng huyết
- Nước ép cần tây có tác dụng gì với sức khỏe?
- Thực phẩm có tác dụng thải độc cơ thể ai cũng nên biết