ĐÔNG TÂY Y KẾT HỢP

Vì sức khỏe người Việt

  • Dịch vụ lập dự án của chúng tôi cung cấp giải pháp toàn diện cho mọi nhu cầu từ dự án dược liệu đến nông nghiệp. Với kinh nghiệm sâu rộng, chúng tôi đảm bảo lập ra các dự án hiệu quả, bền vững, hỗ trợ từ khâu nghiên cứu, phân tích đến thực thi. Liên hệ ngay để biến ý tưởng thành hiện thực!


    Đột phá trong việc sử dụng hợp chất điều trị ung thư từ vừng đen

    Hạt giống giá tốt đủ chủng loại, giống tốt

    Phóng viên TTXVN tại Bangkok dẫn một thông báo của Đại học Chiang Mai cho biết các nhà nghiên cứu của đại học miền Bắc Thái Lan này khẳng định một hợp chất mang tên là Sesamin, chiết xuất từ hạt vừng đen, có tác dụng ngăn chặn sự phát triển của tế bào ung thư, đồng thời kích thích sản sinh kháng thể trong cơ thể người.

    vừng đen

    Các nhà nghiên cứu tại Trung tâm Kỹ thuật mô và tế bào gốc thuộc Đại học Chiang Mai đã chiết xuất và thí nghiệm thành công Sesamin - một hợp chất tự nhiên từ hạt vừng đen nhằm sử dụng nó như một phần trong liệu pháp điều trị ung thư.

    Trước đó, các nhà nghiên cứu trên khắp thế giới cũng từng thử nghiệm với Sesamin. Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu của trung tâm này đã tạo nên một bước đột phá khi sử dụng Sesamin trong điều trị cho một bênh nhân nữ 21 tuổi, bị ung thư hạch bạch huyết.

    Bệnh nhân được chẩn đoán mắc căn bệnh này từ hai năm trước và đã thực hiện hóa trị để tiêu diệt các tế bào ung thư. Sau khi kết hợp cả điều trị bằng hóa chất với việc dùng chiết xuất Sesamin, bệnh nhân hồi phục với tốc độ nhanh hơn và bệnh tình đã thuyên giảm đáng kể.

    Giải thích về cơ chế hoạt động của Sesamin, các nhà nghiên cứu Thái Lan cho biết thông thường, các chất sản sinh ra từ tế bào ung thư sẽ kích thích sự phát triển của những mạch máu bất thường. Lần lượt, những mạch máu mới được tạo ra này sẽ nuôi dưỡng và phát tán tế bào ung thư đi khắp cơ thể.

    Sesamin sẽ làm chậm tốc độ phát triển của các tế bào máu mới, dẫn đến việc tế bào ung thư không được cung cấp dưỡng chất và sẽ tự tiêu hủy. Sesamin đồng thời cũng kích thích sự sản sinh của các kháng thể tấn công vào các tế bào ung thư.

    Hiện nhóm nghiên cứu này đã nộp hồ sơ đăng ký bằng sáng chế cho các nghiên cứu về Sesamin cũng như việc sản xuất thương mại Sesamin ở cả Thái Lan và nước ngoài./. Nguồn: Vietnamplus

    vừng đen

    VỪNG ĐEN

    Tên  khác: Vị thuốc Vừng đen là tên gọi ở miền Bắc, miền Nam gọi là mè, tên khoa học là Sesamum indicum; Đông y gọi là Chi ma, Hồ ma, Hồ ma nhân, du tử miêu, cự thắng tử, bắc chi ma.

    Tác dụng

    Nó có tác dụng bổ ích can thận, dưỡng huyết, khu phong, nhuận tràng, bổ ngũ tạng, tăng khí lực, làm sáng mắt, phát triển bắp thịt, bổ ích tinh tủy.

    Mặc dù phân tích hoá học không thấy khác biệt nhiều giữa thành phần cuả vừng trắng và vừng đen nhưng kinh nghiệm sử dụng chỉ dùng vừng đen với ý nghĩ màu đen đi vào thận nên vừng đen bổ thận.

    Y học dân gian cho rằng nước sắc lá và rễ  vừng đen bôi lên đầu làm tóc mọc tốt và đen hơn.

    Hoa vừng đen vò nát đắp lên mắt làm dịu sưng đỏ.

    Hạt vừng được dùng làm nhiều “Món ăn-bài thuốc”:

    Kiêng kỵ

    ·Âm suy, cơ thể khô ráo.

    Đơn thuốc kinh nghiệm

    1-  Đơn giản nhất là món Cháo mè đen ghi trong Thọ thân dưỡng lão tân thư. Cháo này thơm ngon, ngọt bùi. Nó là món ăn bổ dưỡng với dủ ba nhón thực phẩm chính là protein, lipid, glucid. Cháo này ghi trong sách Thọ thân dưỡng lão tân thư  với lý do:

    Người gìa yếu răng, nuốt hay bị sặc, ăn cháo thật hợp lý.

    Vừng đen quân bình các chất bổ dưỡng

    Người gìa âm suy, tân dịch suy giảm.Vừng đen bổ âm, sinh tân dịch.

    Người gia thường bị táo bón, vừng làm phân trơn nhuận do bổ âm và có chất dầu, nghĩa là trị táo bón cả gốc lẫn ngọn. (xemgiải thích ở đoạn dưới)

    2- Chè mè đen gồm mè đen, bột sắn dây, đường. Bài này bổ âm, giải nhiệt.

    3- Tang ma hoàn gồm vừng đen và lá dâu. Giản tiện hơn là luộc lá dâu non rồi chấm với vừng. Đây là bài thuốc bổ âm an toàn và công hiệu. Món ăn này nhuận trường êm dịu, không gây đau thắt như các thuốc nhuận trường kích thích (lô hội = đảm nha, rễ Nhàu, Muồng…). táo bón có nhiều nguyên nhân:

    Thực phẩm thiếu chất xơ

    Gan tiết ít mật

    Ruột lười hoạt động, ít hoạt động cơ bắp.

    Không có thói quen đi cầu hàng ngày

    Thuốc nhuận trường kích thích làm ruột co bóp ; dùng dài hạn có thể bị lờn. Điều nên làm là thay đổi thực đơn và tăng cường rau quả, vận động nhiều hơn, bổ âm và tân dịch. Tang ma hoàng nhuận trường với cơ chế:

    Cả hai đều bổ âm, sinh tân dịch

    Chất dầu cuả vừng làm phân trơn nhuận.

    Dầu vừng làm tăng tiết mật.

    Lá dâu kích thích nhu động ruột, làm cho phân không đóng tảng.

    Bài này trị bệnh táo bón cả gốc lẫn ngọn.

    Một số tài liệu ghi rằng bài này trị được cao huyết áp,nhức đầu, chóng mặt, hoa mắt, ù tai, tay chân tê dại..đó là những chứng do âm hư và can thận hư.

    4- Cháo mè-khoai mỡ làm giảm cholesterol và ngưà xơ động mạch với cơ chế sau đây:

    Khoai mỡ khoá hoạt tính cuả cholesterol trong mật và thực phẩm để bài xuất theo phân.

    Mè đen kích thích gan tiết mật, giảm cholesterol-huyết.

    Bệnh tim mạch có nguồn gốc sâu xa là âm suy. Mè đen và khoai mỡ đều bổ âm.

    4- Tăng tiết mật, ngưà sỏi mật.

    * Dầu mè làm tăng tiết mật.

    Licithin  cuả vừng bổ sung lecithin trong mật, tăng chất lượng mật.

    Chúng ta biết rằng một trong các nguyên nhân chính gây sỏi thận do cholesterol trong mật quá mức bão hoà nên kết tinh. Lecithin cuả vừng giúp nhũ hoá cholesterol nên không tạo sỏi. Dđồng thời vừng làm tăng tiết mật nên có khả năng đẩy sỏi nhỏ vào ruột.

    4- Món ăn-bài thuốc lợi sữa. Mè đen rang cho vào canh mướp.Cả hai vị đều lợi sữa. Mè đen làm tăng khẩu vị món canh mướp.

    5- Dầu mè trị viêm nướu răng. Thành phần không xà phòng hoá trong dầu mè có khả năng chống viêm nha chu.

    6- Bổ xương và trị thoái hoá khớp.

    -  Vừng có liên quan gì đến xương đâu mà bảo bổ xương ?

    - 100g vừng có 1257mg calci và 3,1mg mangan. Trên lý thuyết là vừng có nhiều calci hơn các thực phẩm thực vật khác. Tuy nhiên ít ai ăn 100g vừng cho nên bảo vừng bổ xương có quá đáng không ?

    - Mè den bổ thận mà thận chủ cốt tuỷ cho nên bảo thận bổ xương cũng không sai.

    - Có người cho rằng vừng chống thoái hoá khớp là điều cần xét lại.

    - Khớp xương tiếp nối hai đầu xương. Khớp gồm một màng bao bọc quanh đầu xương, sụn mềm và chất nhầy. Thoái hoá khớp có thể do mô sụn bị mài mòn mà không tái tạo, cũng có thể do thiếu chất nhày. Thoái hoá khớp có những biểu hiện: đau tại khớp, sưng, hoạt động khó khăn, cứng khớp vào buổi sáng  khi mới ngủ dậy. Thoái hoá khớp liên quan đếns ự lão hoá, do giảm tốc độ sinh chondrocyte và giảm chất nhầy.

    - Thảo nào các cụ bảo nhau: hết nhớt, khô nhớt rồi !

    - Vừng cải thiện sự thoái hoá khớp với cơ chế:

    Chống lão hoá.Mangan cuả vừng tham gia cấu trúc enzym super oxyd dismuthase (SOD), một enzym quan trọng trong quá trình oxyd hoá. Bên cạnh đó, selenium là co-enzym cuả glutathion peroxydase cũng phong toả gốc tự do, chống lão hoá.

    Mangan còn tham gia tái tạo khung sụn.

    Protein và lipid cuả vừng cung cấp nguyên liệu tổng hợp chondroitin cho dịch khớp.

    Vừng đen đi vào thận nên bổ ích xương tủy.

    7- Ma tử nhân hoàn (Thương hàn luận) gồm:Hồ ma nhân, Hạnh nhân, Hậu phác, Đại hoàng, Chỉ thực, Thược dược. Bài này nhuận trường thông tiện. Trị táo bón kéo dài, táo bón do lão suy

    Giải phương như sau:

    Hồ ma nhân: nhuận tràng, thông tiện.

    Hạnh nhân: giáng khí nhuận tràng.

    Thược dược dưỡng âm hoà can.

    Chỉ thực tán kết.

    Hậu phác tiêu thực

    Đại hoàng thông hạ. Bài này dùng ít Đại hoàng.

    Bào chế

    Để làm muối vừng, cần rang nóng cho thơm rồi gĩa vỡ hạt vừng, dầu vừng ứa ra sẽ thơm ngon hơn, tuy nhiên ca dao lại có câu:

    Vò thì vò đỗ vò vừng,

    Như đây với đó xin đừng vò nhau.

    100mg Vừng đen sinh 560 calcori, có thành phần như sau: 7,2g nước, 19g protein, 50g lipid, 18g glucid, 780ng photpho,  620mg kali, 1257mg calci, 347mg manhê, 1,1mg đồng, 11,5mg sắt, 3,1mg mangan, 5mg nicotinamid. Ngoài ra còn có lecithin, phytin, cholin.

    Đông y dùng Vừng đen làm thuốc.

    Thành phần hóa học

    100g Vừng trắng sinh 587 calori, có thành phần như sau: 7,2g nước, 25g protein, 55g lipid 6,9g glucid, 702mg photpho, 423mg kali, 71mg calci, 220mg manhê, 1mg đồng, 4,3mg sắt, 2,2mg mangan, 6mg nicotinamid.

    Dầu vừng làm từ vừng trắng ; nó có 40% acid béo nhiều nối đôi, 40% acid béo một nối đôi, 18% acid béo bão hoà. Tỷ lệ 4.4.1 đạt tiêu chuẩn vì yêu cầu lý thuyết là mỗi thứ 1/3, nhưng trong thức ăn hàng ngày thường có acid béo bão hoà ; dầu vừng ít acid béo bão hoà, phối hợp chung thành mỗi thứ 1/3. Như vậy ăn dầu vừng tốt hơn dầu dưà, dầu cọ. Dầu vừng để lâu không bị ôi– Trước khi chiên rán thức ăn cần để ráo nước vì những hạt nước làm cho dầu bắn tung toé dễ bị phỏng. Để tránh tai nạn, hãy cho vào hạt muối vào chảo dầu, đợi khi muối tan hãy cho thức ăn vào, dầu sẽ không bắn lên nữa. Đây là bí quyết cuả các bà nội trợ, chưa được lý giải thoả đáng.

    Tính vị

     Nó có vị ngọt, tính bình, không độc.

    Hạt giống giá tốt đủ chủng loại, giống tốt


    Sức khỏe đời sống


    Bài thuốc nam chữa bệnh


    Bệnh ung thư


    Cây thuốc Nam


    Bệnh thường gặp



    Tin mới đăng

    Cây thuốc quý

    Bạn cần biết

  • Dịch vụ lập dự án của chúng tôi cung cấp giải pháp toàn diện cho mọi nhu cầu từ dự án dược liệu đến nông nghiệp. Với kinh nghiệm sâu rộng, chúng tôi đảm bảo lập ra các dự án hiệu quả, bền vững, hỗ trợ từ khâu nghiên cứu, phân tích đến thực thi. Liên hệ ngay để biến ý tưởng thành hiện thực!


    Đột phá trong việc sử dụng hợp chất điều trị ung thư từ vừng đen

    Hạt giống giá tốt đủ chủng loại, giống tốt

    Phóng viên TTXVN tại Bangkok dẫn một thông báo của Đại học Chiang Mai cho biết các nhà nghiên cứu của đại học miền Bắc Thái Lan này khẳng định một hợp chất mang tên là Sesamin, chiết xuất từ hạt vừng đen, có tác dụng ngăn chặn sự phát triển của tế bào ung thư, đồng thời kích thích sản sinh kháng thể trong cơ thể người.

    vừng đen

    Các nhà nghiên cứu tại Trung tâm Kỹ thuật mô và tế bào gốc thuộc Đại học Chiang Mai đã chiết xuất và thí nghiệm thành công Sesamin - một hợp chất tự nhiên từ hạt vừng đen nhằm sử dụng nó như một phần trong liệu pháp điều trị ung thư.

    Trước đó, các nhà nghiên cứu trên khắp thế giới cũng từng thử nghiệm với Sesamin. Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu của trung tâm này đã tạo nên một bước đột phá khi sử dụng Sesamin trong điều trị cho một bênh nhân nữ 21 tuổi, bị ung thư hạch bạch huyết.

    Bệnh nhân được chẩn đoán mắc căn bệnh này từ hai năm trước và đã thực hiện hóa trị để tiêu diệt các tế bào ung thư. Sau khi kết hợp cả điều trị bằng hóa chất với việc dùng chiết xuất Sesamin, bệnh nhân hồi phục với tốc độ nhanh hơn và bệnh tình đã thuyên giảm đáng kể.

    Giải thích về cơ chế hoạt động của Sesamin, các nhà nghiên cứu Thái Lan cho biết thông thường, các chất sản sinh ra từ tế bào ung thư sẽ kích thích sự phát triển của những mạch máu bất thường. Lần lượt, những mạch máu mới được tạo ra này sẽ nuôi dưỡng và phát tán tế bào ung thư đi khắp cơ thể.

    Sesamin sẽ làm chậm tốc độ phát triển của các tế bào máu mới, dẫn đến việc tế bào ung thư không được cung cấp dưỡng chất và sẽ tự tiêu hủy. Sesamin đồng thời cũng kích thích sự sản sinh của các kháng thể tấn công vào các tế bào ung thư.

    Hiện nhóm nghiên cứu này đã nộp hồ sơ đăng ký bằng sáng chế cho các nghiên cứu về Sesamin cũng như việc sản xuất thương mại Sesamin ở cả Thái Lan và nước ngoài./. Nguồn: Vietnamplus

    vừng đen

    VỪNG ĐEN

    Tên  khác: Vị thuốc Vừng đen là tên gọi ở miền Bắc, miền Nam gọi là mè, tên khoa học là Sesamum indicum; Đông y gọi là Chi ma, Hồ ma, Hồ ma nhân, du tử miêu, cự thắng tử, bắc chi ma.

    Tác dụng

    Nó có tác dụng bổ ích can thận, dưỡng huyết, khu phong, nhuận tràng, bổ ngũ tạng, tăng khí lực, làm sáng mắt, phát triển bắp thịt, bổ ích tinh tủy.

    Mặc dù phân tích hoá học không thấy khác biệt nhiều giữa thành phần cuả vừng trắng và vừng đen nhưng kinh nghiệm sử dụng chỉ dùng vừng đen với ý nghĩ màu đen đi vào thận nên vừng đen bổ thận.

    Y học dân gian cho rằng nước sắc lá và rễ  vừng đen bôi lên đầu làm tóc mọc tốt và đen hơn.

    Hoa vừng đen vò nát đắp lên mắt làm dịu sưng đỏ.

    Hạt vừng được dùng làm nhiều “Món ăn-bài thuốc”:

    Kiêng kỵ

    ·Âm suy, cơ thể khô ráo.

    Đơn thuốc kinh nghiệm

    1-  Đơn giản nhất là món Cháo mè đen ghi trong Thọ thân dưỡng lão tân thư. Cháo này thơm ngon, ngọt bùi. Nó là món ăn bổ dưỡng với dủ ba nhón thực phẩm chính là protein, lipid, glucid. Cháo này ghi trong sách Thọ thân dưỡng lão tân thư  với lý do:

    Người gìa yếu răng, nuốt hay bị sặc, ăn cháo thật hợp lý.

    Vừng đen quân bình các chất bổ dưỡng

    Người gìa âm suy, tân dịch suy giảm.Vừng đen bổ âm, sinh tân dịch.

    Người gia thường bị táo bón, vừng làm phân trơn nhuận do bổ âm và có chất dầu, nghĩa là trị táo bón cả gốc lẫn ngọn. (xemgiải thích ở đoạn dưới)

    2- Chè mè đen gồm mè đen, bột sắn dây, đường. Bài này bổ âm, giải nhiệt.

    3- Tang ma hoàn gồm vừng đen và lá dâu. Giản tiện hơn là luộc lá dâu non rồi chấm với vừng. Đây là bài thuốc bổ âm an toàn và công hiệu. Món ăn này nhuận trường êm dịu, không gây đau thắt như các thuốc nhuận trường kích thích (lô hội = đảm nha, rễ Nhàu, Muồng…). táo bón có nhiều nguyên nhân:

    Thực phẩm thiếu chất xơ

    Gan tiết ít mật

    Ruột lười hoạt động, ít hoạt động cơ bắp.

    Không có thói quen đi cầu hàng ngày

    Thuốc nhuận trường kích thích làm ruột co bóp ; dùng dài hạn có thể bị lờn. Điều nên làm là thay đổi thực đơn và tăng cường rau quả, vận động nhiều hơn, bổ âm và tân dịch. Tang ma hoàng nhuận trường với cơ chế:

    Cả hai đều bổ âm, sinh tân dịch

    Chất dầu cuả vừng làm phân trơn nhuận.

    Dầu vừng làm tăng tiết mật.

    Lá dâu kích thích nhu động ruột, làm cho phân không đóng tảng.

    Bài này trị bệnh táo bón cả gốc lẫn ngọn.

    Một số tài liệu ghi rằng bài này trị được cao huyết áp,nhức đầu, chóng mặt, hoa mắt, ù tai, tay chân tê dại..đó là những chứng do âm hư và can thận hư.

    4- Cháo mè-khoai mỡ làm giảm cholesterol và ngưà xơ động mạch với cơ chế sau đây:

    Khoai mỡ khoá hoạt tính cuả cholesterol trong mật và thực phẩm để bài xuất theo phân.

    Mè đen kích thích gan tiết mật, giảm cholesterol-huyết.

    Bệnh tim mạch có nguồn gốc sâu xa là âm suy. Mè đen và khoai mỡ đều bổ âm.

    4- Tăng tiết mật, ngưà sỏi mật.

    * Dầu mè làm tăng tiết mật.

    Licithin  cuả vừng bổ sung lecithin trong mật, tăng chất lượng mật.

    Chúng ta biết rằng một trong các nguyên nhân chính gây sỏi thận do cholesterol trong mật quá mức bão hoà nên kết tinh. Lecithin cuả vừng giúp nhũ hoá cholesterol nên không tạo sỏi. Dđồng thời vừng làm tăng tiết mật nên có khả năng đẩy sỏi nhỏ vào ruột.

    4- Món ăn-bài thuốc lợi sữa. Mè đen rang cho vào canh mướp.Cả hai vị đều lợi sữa. Mè đen làm tăng khẩu vị món canh mướp.

    5- Dầu mè trị viêm nướu răng. Thành phần không xà phòng hoá trong dầu mè có khả năng chống viêm nha chu.

    6- Bổ xương và trị thoái hoá khớp.

    -  Vừng có liên quan gì đến xương đâu mà bảo bổ xương ?

    - 100g vừng có 1257mg calci và 3,1mg mangan. Trên lý thuyết là vừng có nhiều calci hơn các thực phẩm thực vật khác. Tuy nhiên ít ai ăn 100g vừng cho nên bảo vừng bổ xương có quá đáng không ?

    - Mè den bổ thận mà thận chủ cốt tuỷ cho nên bảo thận bổ xương cũng không sai.

    - Có người cho rằng vừng chống thoái hoá khớp là điều cần xét lại.

    - Khớp xương tiếp nối hai đầu xương. Khớp gồm một màng bao bọc quanh đầu xương, sụn mềm và chất nhầy. Thoái hoá khớp có thể do mô sụn bị mài mòn mà không tái tạo, cũng có thể do thiếu chất nhày. Thoái hoá khớp có những biểu hiện: đau tại khớp, sưng, hoạt động khó khăn, cứng khớp vào buổi sáng  khi mới ngủ dậy. Thoái hoá khớp liên quan đếns ự lão hoá, do giảm tốc độ sinh chondrocyte và giảm chất nhầy.

    - Thảo nào các cụ bảo nhau: hết nhớt, khô nhớt rồi !

    - Vừng cải thiện sự thoái hoá khớp với cơ chế:

    Chống lão hoá.Mangan cuả vừng tham gia cấu trúc enzym super oxyd dismuthase (SOD), một enzym quan trọng trong quá trình oxyd hoá. Bên cạnh đó, selenium là co-enzym cuả glutathion peroxydase cũng phong toả gốc tự do, chống lão hoá.

    Mangan còn tham gia tái tạo khung sụn.

    Protein và lipid cuả vừng cung cấp nguyên liệu tổng hợp chondroitin cho dịch khớp.

    Vừng đen đi vào thận nên bổ ích xương tủy.

    7- Ma tử nhân hoàn (Thương hàn luận) gồm:Hồ ma nhân, Hạnh nhân, Hậu phác, Đại hoàng, Chỉ thực, Thược dược. Bài này nhuận trường thông tiện. Trị táo bón kéo dài, táo bón do lão suy

    Giải phương như sau:

    Hồ ma nhân: nhuận tràng, thông tiện.

    Hạnh nhân: giáng khí nhuận tràng.

    Thược dược dưỡng âm hoà can.

    Chỉ thực tán kết.

    Hậu phác tiêu thực

    Đại hoàng thông hạ. Bài này dùng ít Đại hoàng.

    Bào chế

    Để làm muối vừng, cần rang nóng cho thơm rồi gĩa vỡ hạt vừng, dầu vừng ứa ra sẽ thơm ngon hơn, tuy nhiên ca dao lại có câu:

    Vò thì vò đỗ vò vừng,

    Như đây với đó xin đừng vò nhau.

    100mg Vừng đen sinh 560 calcori, có thành phần như sau: 7,2g nước, 19g protein, 50g lipid, 18g glucid, 780ng photpho,  620mg kali, 1257mg calci, 347mg manhê, 1,1mg đồng, 11,5mg sắt, 3,1mg mangan, 5mg nicotinamid. Ngoài ra còn có lecithin, phytin, cholin.

    Đông y dùng Vừng đen làm thuốc.

    Thành phần hóa học

    100g Vừng trắng sinh 587 calori, có thành phần như sau: 7,2g nước, 25g protein, 55g lipid 6,9g glucid, 702mg photpho, 423mg kali, 71mg calci, 220mg manhê, 1mg đồng, 4,3mg sắt, 2,2mg mangan, 6mg nicotinamid.

    Dầu vừng làm từ vừng trắng ; nó có 40% acid béo nhiều nối đôi, 40% acid béo một nối đôi, 18% acid béo bão hoà. Tỷ lệ 4.4.1 đạt tiêu chuẩn vì yêu cầu lý thuyết là mỗi thứ 1/3, nhưng trong thức ăn hàng ngày thường có acid béo bão hoà ; dầu vừng ít acid béo bão hoà, phối hợp chung thành mỗi thứ 1/3. Như vậy ăn dầu vừng tốt hơn dầu dưà, dầu cọ. Dầu vừng để lâu không bị ôi– Trước khi chiên rán thức ăn cần để ráo nước vì những hạt nước làm cho dầu bắn tung toé dễ bị phỏng. Để tránh tai nạn, hãy cho vào hạt muối vào chảo dầu, đợi khi muối tan hãy cho thức ăn vào, dầu sẽ không bắn lên nữa. Đây là bí quyết cuả các bà nội trợ, chưa được lý giải thoả đáng.

    Tính vị

     Nó có vị ngọt, tính bình, không độc.

    Hạt giống giá tốt đủ chủng loại, giống tốt


    Quảng cáo 336x280